Lịch sử Việt Nam với biết bao trang sử chói lọi vàng son lưu danh muôn đời. Một trong số đó là cuộc khởi nghĩa Lam Sơn vang danh đã trở thành niềm tự hào dân tộc của biết bao thế hệ người Việt. Vậy nguyên nhân thắng lợi và ý nghĩa lịch sử của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn là gì? Hãy cùng GiaiNgo tìm hiểu qua bài viết sau đây!
Lê Lợi (1385 – 1433) sinh ra ở hương Lam Sơn, huyện Lương Giang, trấn Thanh Hóa, nay là huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa. Ông nổi tiếng là người thông minh, lanh lợi ngay từ nhỏ. Lê Lợi là người ham đọc sách, dùi mài kinh sử và binh pháp. Ông được biết đến là một dũng tướng tài ba, đức độ.
Năm 1418, sau khi chiêu dụ được một số hào kiệt và chí sĩ cùng chí hướng lớn trong vùng như: Nguyễn Trãi, Lê Văn An, Bùi Quốc Hưng, Trần Nguyên Hãn… Ông đã phất cờ khởi nghĩa ở vùng núi Lam Sơn, tự xưng là Bình Định Vương, đồng thời kêu gọi nhân dân đứng lên đánh giặc ngoại xâm phương Bắc.
Lê Lợi đã lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Lam Sơn đi đến thắng lợi. Sau đó, ông lên ngôi vua, lấy hiệu là Lê Thái Tổ, đặt tên nước ta là Đại Việt, đóng đô ở Đông Đô (Hà Nội).
Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn bắt đầu từ năm 1418 và kết thúc thắng lợi vào năm 1427. Cuộc khởi nghĩa do Lê Lợi khởi xướng và là lãnh đạo, đánh đuổi quân Minh xâm lược.
Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn diễn ra với ba giai đoạn chính:
Diễn biến cuộc khởi nghĩa Lam Sơn được chia thành ba giai đoạn chính.
Ngày 7/2/1418, Lê Lợi phất cờ khởi nghĩa ở Lam Sơn (Thanh Hóa) và tự xưng là Bình Định Vương. Ông kêu gọi nhân dân cùng nhau đứng lên chống lại quân Minh xâm lược.
Thời gian đầu, lực lượng nghĩa quân còn yếu kém và gặp nhiều khó khăn. Nghĩa quân lực lượng mỏng, quân lương thì thiếu thốn. Giai đoạn này, nghĩa quân chỉ thắng được những trận nhỏ. Do lực lượng chênh lệch cũng như điều kiện khó khăn, nghĩa quân Lam Sơn nhiều lần bị quân Minh vây đánh, phải rút lui chạy lên núi Chí Linh.
Giữa năm 1418, quân Minh huy động một lực lượng bao chặt căn cứ Chí Linh, quyết tâm bắt giết Lê Lợi. Trước tình hình nguy cấp, Lê Lai đã phải giả trang làm Lê Lợi, chỉ huy một toán quân liều chết phá vòng vây giặc. Lê Lai cùng toán quân đã anh dũng hi sinh. Quân Minh tưởng nhầm đã giết được Lê Lợi nên rút quân.
Cuối năm 1421, quân Minh huy động hơn mười vạn lính mở cuộc càn quét lớn vào căn cứ nghĩa quân. Lê Lợi lại phải rút quân lên núi Chí Linh. Tại đây, nghĩa quân đã trải qua muôn vàn khó khăn, thiếu lương thực trầm trọng, đói và rét. Lê Lợi phải cho giết cả voi, ngựa (kể cả con ngựa của ông) để nuôi quân.
Năm 1422, Lê Lợi đề nghị tạm hoà và được quân Minh chấp thuận. Tháng 5/1423, nghĩa quân củng cố được lực lượng, lấy lí do sứ giả bị quân Minh bắt giữ, cắt đứt giảng hòa. Cuộc khởi nghĩa chuyển qua giai đoạn mới.
Năm 1424, Lê Lợi quyết định đưa quân vào vùng Nghệ An. Đây được xem là bước chuyển mình trong chiến thuật lãnh đạo của Bình Định Vương.
Giải phóng Nghệ An (năm 1424)
Theo kế hoạch của Nguyễn Chích, ngày 12/10/ 1424, nghĩa quân bất ngờ tấn công Đa Căng Thọ Xuân – Thanh Hóa, đồng thời lui quân về cứu viện Cầm Bành. Sau đó hạ thành Trà Lân. Trên đà thắng đó, nghĩa quân tiến đánh Khả Lưu, phần lớn Nghệ An được giải phóng.
Giải phóng Tân Bình, Thuận Hóa (năm 1425)
Tháng 8/1425, Trần Nguyên Hãn, Lê Ngân chỉ huy quân tiến vào Tân Bình, Thuận Hóa. Sau khi giao chiến, quân Minh thua phải chạy về vùng Tây Đô, chỉ còn mấy thành lũy bị cô lập và bị nghĩa quân vây hãm. Các thành trì từ Thanh Hóa đều bị nghĩa quân làm chủ.
Tiến quân ra Bắc, mở rộng phạm vi hoạt động (cuối năm 1426)
Tháng 9/1426, nghĩa quân chia làm ba đạo tiến quân ra Bắc. Đạo thứ nhất, tiến ra giải phóng miền Tây Bắc, ngăn chặn viện binh từ Vân Nam sang. Đạo thứ hai, giải phóng vùng hạ lưu sông Nhị (sông Hồng) và chặn đường rút lui của giặc từ Nghệ An về Đông Quan. Đạo thứ ba, tiến thẳng về Đông Quan.
Nghĩa quân chiến thắng nhiều trận lớn, đi đến đâu cũng được nhân dân ủng hộ. Quân Minh phải rút lui về thành Đông Quan cố thủ.
Trong giai đoạn này, nghĩa quan tiếp tục tiến đánh và giành chiến thắng ở nhiều trận khác nhau. Tháng 8/1426, Lê Lợi chia nghĩa quân thành ba cánh đánh vào Bắc với ba hướng Tây Bắc, Đông Bắc và Đông Quan. Trước tình thế nguy cấp, năm 1426, Vương Thông dẫn năm vạn viện binh kéo vào thành Đông Quan, nâng số quân Minh ở đây lên mười vạn.
Tuy nhiên, mặc dù quân Minh được tiếp viện nhưng tướng Đỗ Bí của nghĩa quân Lam Sơn vẫn đánh bại Mã Kỳ ở Từ Liêm. Do Vương Thông đã phòng bị kĩ lưỡng nên tướng Lê Triện của nghĩa quân bị thua đành rút về Cao Bộ và cầu cứu đến tướng Nguyễn Xí. Tướng Đinh Lễ và Nguyễn Xí dụ quân Vương Thông vào trận Tốt Động – Chúc Động khiến quân Vương Thông thua to phải chạy về cố thủ ở Đông Quan.
Sau đó, Vương Thông nghĩ kế đòi lập con cháu nhà Trần lên làm vua (Trần Cảo), dùng tương kế tựu kế đánh lại nghĩa quân Lam Sơn. Tuy nhiên, Lê Lợi đã phát hiện kịp thời và không giảng hòa. Sau đó, Lê Lợi sai quân đi chiếm đánh các thành như Điêu Diêu, Tam Giang và Xương Giang, Kỳ Ôn. Nghĩa quân chiếm được thành Đông Quan vào năm 1427.
Cuối năm 1427, mười lăm vạn quân Minh do tướng Liễu Thăng chỉ huy ồ ạt kéo sang nước ta. Lê Lợi đã cho đánh cánh quân của Liễu Thăng trước để phủ đầu địch. Các nhánh quân Minh sau đó đều thất bại dưới sự chỉ huy của Lê Lợi, các tướng Minh người bị giết, người tự vẫn, chỉ có Hoàng Phúc sống sót được thả về.
Vào ngày 14/12/1427, quân Lam Sơn phục kích quân của Mộc Thạnh khiến hắn thua to. Vương Thông thấy thế bèn xin giảng hòa. Sau đó, hai bên tiến hành làm lễ thề tại thành Đông Quan.
Đến tháng 12/1427, quân Minh rút lui hết về nước, cuộc khởi nghĩa giành thắng lợi hoàn toàn.
Sau gần mười năm chiến đấu, nghĩa quân Lam Sơn đã tiêu diệt được hơn năm vạn quân Minh, bắt sống một vạn tên. Các tướng Minh như Lương Minh, Ô Mã Nhi, Liễu Thăng,… bị giết. Mộc Thạnh phải tháo chạy, Vương Thông phải xin hàng và chấp nhận mở hội thề ở Đông Quan. Đến năm 1428, đất nước ta đã sạch bóng ngoại xâm, chấm dứt hai mươi năm độ hộ phong kiến của nhà Minh. Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn hoàn toàn thắng lợi.
Nguyên nhân thắng lợi và ý nghĩa lịch sử của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn là thông tin được nhiều
Nguyên nhân thắng lợi của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn:
Trong đó, nguyên nhân quan trọng nhất dẫn đến thắng lợi của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn là nguyên nhân đầu tiên: Nhân dân ta có lòng yêu nước nồng nàn, ý chí bất khuất, quyết tâm giành lại độc lập, tự do cho đất nước.
Thắng lợi của khởi nghĩa Lam Sơn đã chấm dứt hơn hai mươi năm đô hộ của triều đình phong kiến nhà Minh. Cuộc khởi nghĩa đã đập tan những âm mưu đô hộ nước ta của nhà Minh. Đất nước ta hoàn toàn sạch bóng quân xâm lược.
Chiến thắng của nghĩa quân Lam Sơn cũng thể hiện tinh thần yêu nước, lòng dũng cảm của nhân dân ta. Đồng thời, mở ra cho đất nước ta một thời kì mới – Đại Việt thời Lê Sơ. Công cuộc dựng nước và giữ nước của đất nước ta với biết công trạng của những người anh hùng đã làm nên lịch sử vẻ vang cho dân tộc.
Qua bài phân tích trên, hi vọng các bạn đã có cho mình câu trả lời về nguyên nhân thắng lợi và ý nghĩa lịch sử của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn cũng như diễn biến của cuộc khởi nghĩa. GiaiNgo hi vọng sẽ luôn là người bạn đồng hành cùng bạn tìm hiểu những trang sử Việt hào hùng. Đừng quên để lại phản hồi cho chúng tôi nhé!