Phong trào Cần Vương dưới thời vua Hàm Nghi đã làm nổi lên một loạt cuộc khởi nghĩa đấu tranh của nhân dân ta chống lại thực dân Pháp. Tuy nhiên, phong trào đã nhanh chóng bị quân Pháp đàn áp. Vậy đâu là nguyên nhân thất bại của phong trào Cần Vương? Hãy cùng GiaiNgo tìm hiểu!
Cần Vương có nghĩa là là giúp vua, phò vua giúp nước. Trong lịch sử Việt Nam, đã từng có những lực lượng nhân danh giúp nhà vua như thời Lê sơ, các cánh quân hưởng ứng lời kêu gọi của vua Lê Chiêu Tông chống lại quyền thần Mạc Đăng Dung.
Tuy nhiên, phong trào này không để lại nhiều dấu ấn. Cho nên khi nhắc tới Cần Vương, người ta thường nghĩa tới phong trào chống Pháp xâm lược.
Phong trào Cần Vương (1885 – 1896) là tập hợp hệ thống các cuộc khởi nghĩa vũ trang khắp cả nước nhằm hưởng ứng chiếu Cần Vương của vua Hàm Nghi. Phong trào thu hút được một số quan lại trong triều đình và văn thân.
Ngoài ra, phong trào còn thu hút đông đảo các tầng lớp sĩ phu yêu nước thời bấy giờ. Tuy nhiên, quy mô của phong trào còn riêng lẻ và mang tính địa phương.
Tác dụng của chiếu Cần Vương
Nguyên nhân thất bại của phong trào Cần Vương:
Tính chất địa phương: Phong trào Cần Vương thất bại có nguyên nhân đến từ sự kháng cự chỉ có tính chất địa phương. Các lãnh đạo của phong trào chỉ có uy tín tại địa phương nơi xuất thân, khi họ bị bắt hoặc giết thì nghĩa quân đầu hàng hoặc giải tán.
Thiếu sự quy tụ và đường lối lãnh đạo: Phong trào Cần Vương vẫn chưa hội tụ và tập hợp được thành một khối thống nhất; chưa có phương hướng hoạt động cũng như đường lối chiến lược rõ ràng đủ mạnh để chống Pháp.
Quan hệ với nhân dân: Các cuộc khởi nghĩa của phong trào Cần Vương không lấy được sự tin tưởng từ nhân dân bởi gốc rễ chưa xuất phát từ nông dân. Các đạo quân còn đi cướp bóc của dân chúng.
Mâu thuẫn với tôn giáo: Việc xung đột với Công giáo của quân Cần Vương buộc nhiều giáo dân phải tự vệ bằng cách kết nối thông đồng với thực dân Pháp. Theo thống kê của người Pháp cho biết, có hơn 20.000 giáo dân đã bị quân Cần Vương giết hại.
Mâu thuẫn sắc tộc: Sự sai lầm trong chính sách sa thải các quan chức Việt, cho dân tộc thiểu số quyền tự trị khiến các sắc dân này đã đứng về phía Pháp. Chính người Thượng đã bắt Hàm Nghi. Các bộ lạc Thái, Mán, Mèo, Nùng, Thổ đều đã cắt đường liên lạc của quân Cần Vương. Họ cũng giúp quân Pháp chiến tranh phản du kích đầy hiệu quả.
Vũ khí: Với vũ khí tự túc, thô sơ, quân Cần Vương khó mà đối đầu với vũ khí hiện đại của quân đội Pháp.
Lực lượng chênh lệch: Lực lượng của phong trào Cần Vương quá chênh lệch so với đội quân hùng mạnh của Pháp. Họ chỉ có thể tấn công vào những chỗ yếu, sơ hở của địch; không đủ khả năng thực hiện chiến tranh trực diện với lực lượng của địch.
Tinh thần chiến đấu: Ngoại trừ một số thủ lĩnh có tinh thần chiến đấu đến cùng và hi sinh vì nước, không ít thủ lĩnh quân khởi nghĩa nhanh chóng buông vũ khí đầu hàng khi tương quan lực lượng bắt đầu bất lợi. Vì vậy mới khiến phong trào nhanh chóng suy yếu và tan rã.
Mục đích của phong trào Cần Vương là giúp vua cứu nước, đánh đuổi giặc Pháp, khôi phục lại quốc gia phong kiến độc lập.
Ngày 13/7/1885, Tôn Thất Thuyết nhân danh vua Hàm Nghi ra chiếu Cần Vương, kêu gọi văn thân, sĩ phu và nhân dân cả nước đứng lên vì vua mà kháng chiến. Lúc này, triều đình phong kiến nhà Nguyễn chỉ là bù nhìn, thực dân Pháp đã nắm mọi quyền hành ở nước ta. Trước thế sự đó, chính quyền yêu nước của vua Hàm Nghi kêu gọi nhân dân đứng lên đấu tranh chống lại thực dân Pháp xâm lược.
Tính chất của phong trào Cần Vương là phong trào yêu nước trên lập trường phong kiến. Đây là một phong trào yêu nước chống thực dân Pháp ngoại xâm theo ý thức hệ phong kiến, thể hiện tính dân tộc sâu sắc.
Phong trào là sự hỗ trợ giúp vua giành lại đất nước phong kiến, thể hiện tình yêu dân tộc. Tuy nhiên, phong trào lại diễn ra theo khuynh hướng lẻ tẻ. Đây cũng là một trong những nguyên nhân thất bại của phong trào Cần Vương.
Đặc điểm của phong trào Cần Vương:
Phong trào Cần Vương phát triển qua hai giai đoạn:
Giai đoạn I (1885 – 1888): Phong trào bùng nổ trên khắp cả nước
Hưởng ứng lời kêu gọi chiếu Cần Vương, nhiều văn thân, sĩ phu và nhân dân yêu nước đứng lên, tập hợp các nghĩa binh, xây dựng căn cứ khởi nghĩa. Họ đấu tranh mạnh mẽ quyết liệt trước thực dân Pháp cùng bè lũ tay sai trên các địa bàn rộng lớn thuộc Bắc và Trung Kì. Nhiều tướng lĩnh đã tham gia chỉ huy như Phan Đình Phùng, Trần Xuân Soạn, Phàm Bành,…
Triều đình Hàm Nghi với sự phò tá trợ giúp của Tôn Thất Đàm và Tôn Thất Nghiệp (là hai người con của Tôn Thất Thuyết). Dưới sự đàn áp của thực dân Pháp, vua Hàm Nghi phải rút lui và chiến đấu ở vùng núi Quảng Bình, sau đó lui về Ấu Sơn (Hà Tĩnh).
Tháng 6/1886, Triều đình Đồng Khánh của thực dân Pháp theo lệnh toàn quyền Pháp xuống dụ kêu hàng. Thế nhưng, không ai trong triều đình Hàm Nghi chịu đầu hàng buông súng.
Trong giai đoạn này, các cuộc đấu tranh chỉ dừng lại ở phạm vi nhất định, còn riêng lẻ. Các cuộc khởi nghĩa lần lượt nổ ra ở hầu hết các vùng Bắc Kì và Trung Kì.
Cuối năm 1888, do sự phản bội của Trương Quang Ngọc nên vua Hàm Nghi bị bắt và đày đi Angieri. Phong trào Cần Vương giai đoạn thứ nhất kết thúc.
Giai đoạn II (1888 – 1896): Phong trào quy tụ các cuộc khởi nghĩa lớn
Từ cuối năm 1888, mặc dù không còn sự lãnh đạo trực tiếp từ triều đình nhưng phong trào Cần Vương vẫn tiếp tục diễn ra. Nhiều văn thân, sĩ phu yêu nước đứng lên lãnh đạo và phát triển thành nhiều cuộc khởi nghĩa lớn, với tổ chức cao hơn.
Một số cuộc khởi nghĩa lớn tiêu biểu đã diễn ra như: cuộc khởi nghĩa Hương Khê của Phan Đình Phùng và Cao Thắng, khởi nghĩa Hùng Lĩnh do Tống Duy Tân lãnh đạo, khởi nghĩa Bãi Sậy do Nguyễn Thiện Thuật chỉ huy,….
Trong giai đoạn này, nhiều cuộc khởi nghĩa lớn đã nổ ra nhưng thực dân Pháp cũng tăng cường lực lượng truy quét. Do đó, để duy trì và phát triển, các nghĩa quân phải liên tục di chuyển địa bàn hoạt động, từ đồng bằng lên vùng trung du và miền núi.
Phong trào Cần Vương giai đoạn này vẫn hoạt động riêng lẻ, chưa có sự thống nhất giữa các cuộc khởi nghĩa lớn. Tính địa phương của các khởi nghĩa dẫn đến sự thiếu lãnh đạo và liên kết. Các cuộc khởi lần lượt thất bại dưới sự đàn áp liên tục của quân đội Pháp.
Năm 1896, phong trào Cần Vương kết thúc.
Ý nghĩa của phong trào Cần Vương:
Phong trào Cần Vương đã thể hiện sâu sắc tinh thần yêu nước, ý chí kiên cường, bất khuất của nhân dân ta. Nhân dân sẵn sàng đứng lên đấu tranh chống thực dân Pháp, giành lại độc lập dân tộc.
Sự thất bại của phong trào do hệ tư tưởng phong kiến chi phối. Cho nên, khi phong trào thất bại cũng đã chấm dứt thời kì đấu tranh theo ý thức hệ tư tưởng phong kiến, chấm dứt sứ mệnh lịch sử của giai cấp phong kiến trong việc lãnh đạo phong trào cách mạng.
Từ đây, phong trào cách mạng của Việt Nam cần phải tìm ra con đường đấu tranh mới để giành được độc lập dân tộc. Chính điều này đã giúp cho những người yêu nước Việt Nam hướng đến những tư tưởng cách mạng mới, tiếp tục thực hiện nhiệm vụ giải phóng dân tộc.
Kết quả thất bại nhưng phong trào cũng đã cổ vũ mạnh mẽ tinh thần đấu tranh chống lại quân xâm lược của nhân dân ta. Phong trào này thất bại thì sẽ có những phong trào mới nổ ra, tiếp nối truyền thống chống quân xâm lược của nước ta.
Bài viết trên đã chỉ được nguyên nhân thất bại của phong trào Cần Vương. Tuy phong trào Cần Vương thất bại nhưng cũng đã để lại những bài học kinh nghiệm quý giá, phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta. Đừng quên theo dõi GiaiNgo để cập nhật thêm những kiến thức lịch sử thú vị nhé!